• Không có sản phẩm nào trong giỏ hàng

hotline

0899.90.91.92Hỗ trợ khách hàng 24/7

Kiến thức

Lịch sử Aromatherapy (Phần 2)

Trong phần 2 này, chúng ta sẽ cùng nhau đi qua lịch sử Aromatherapy trong đời sống của Người Hy Lạp, Người La Mã, Người Do Thái và Kito Giáo sơ khai, trong thời kỳ Trung Cổ và trong Đạo Hồi thời Trung Cổ. 

5. Người Hy Lạp

Người Hy Lạp đã học rất nhiều về cây thảo mộc thơm từ thung lũng sông Nile ở Ai Cập, được gọi là "Cái nôi của Y Học", và điều này đã xảy ra sau một chuyến thăm khu vực này của Herodotus và Democrates vào khoảng 4-500 trước Công nguyên. Herodotus cũng ghi chép về cách phụ nữ Assyrian "nghiền nhuyễn với một viên đá, gỗ của cây tuyết tùng, trắc bách diệp và nhũ hương, và thêm nước cho đến khi đạt một độ đậm đặc nhất định. Với hỗn hợp này, họ thoa lên cơ thể và khuôn mặt để tạo ra một mùi thơm rất dễ chịu." Sau đó, một trường y học đã được thành lập trên hòn đảo Cos của Hy Lạp và cuối cùng trở nên nổi tiếng nhờ sự bảo trợ của Hippocrates.

Hippocrates (460-377 trước Công nguyên), sinh ra ở Hy Lạp, được biết đến với danh xưng "Cha của Y Học", đã viết về các đặc tính hữu ích của cây cỏ và thảo mộc, hiệu quả ghi chép mọi kiến thức đã được học từ người Ai Cập. Phương pháp điều trị của ông bao gồm mát-xa với các chiết xuất, sử dụng nội tiêu của thảo mộc, tắm và liệu pháp vật lý. Phẫu thuật chỉ được sử dụng như là phương án cuối cùng và ông coi toàn bộ cơ thể như một hệ thống - khái niệm về toàn diện.

Hippocrates

Ngay từ thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên, Hippocrates đã nhận ra rằng việc đốt cháy một số loại thảo mộc thơm mang lại sự bảo vệ chống lại các bệnh truyền nhiễm. Một thời điểm nào đó, ông thậm chí sử dụng kiến thức này về tinh dầu thơm để khử trùng Athens và loại bỏ đại dịch. Cùng với Galen (thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên - xem "Người La Mã" phía dưới), Hippocrates giảng dạy về "sức mạnh chữa lành của tự nhiên". Ông được trích dẫn là đã nói rằng, "Con đường tới sức khỏe là tắm nước thơm và mát-xa có hương thơm mỗi ngày", và rằng, "Bác sĩ phải có kinh nghiệm trong nhiều lĩnh vực, nhưng nhất định phải giỏi trong việc mát-xa... bởi vì không có gì có thể làm chặt một khớp quá lỏng lẻo và làm lỏng lẻo một khớp quá cứng".

Nền y học Hy Lạp được xây dựng trên sự cân bằng tinh thần, tình cảm và thể chất. Bệnh được coi là khi mất đi sự cân bằng này, và con đường trở lại sức khỏe là sự cân bằng lại ba yếu tố này - nói cách khác, là sự toàn diện.

Ngày nay, có thể Hippocrates nổi tiếng hơn với Lời Thề Hippocratic, mà tất cả các bác sĩ mới tốt nghiệp đều phải tuyên thệ trung thành. Tuy nhiên, Theophrastus (370-285 trước Công nguyên), một học trò triết học Hy Lạp của cả Plato và Aristotle, và sau này là lãnh đạo của Học viện Peripatetic, đã viết cuốn sách đầu tiên về mùi hương, có tên "Concerning Odours". Ông liệt kê tất cả các cây thảo mộc thơm của Hy Lạp và nhập khẩu, thảo luận về cách chúng có thể được sử dụng. Và, Theophrastus đã ghi lại một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của aromatherapy - rằng các tinh dầu thơm khi áp dụng bên ngoài vẫn có thể ảnh hưởng đến hoạt động nội tại của cơ thể. Công trình của ông có tựa đề "Enquiry into Plants" thể hiện những nỗ lực đầu tiên để ghi chép có hệ thống các quan sát về cây cỏ và liệt kê chúng theo đặc điểm tương đồng, ví dụ như chúng là cây một năm, hai năm hoặc lâu năm.

Người Hy Lạp tin rằng những hương thơm ngọt ngào có nguồn gốc từ thiên đàng. Trong thần thoại cổ đại của họ, các vị thần hạ cánh xuống trái đất trên những đám mây thơm, mặc chiếc áo choàng đẫm hương thơm. Sau khi chết, người Hy Lạp cũng tin rằng những người đã qua đời sẽ đi đến Elysium, nơi không khí luôn mang mùi hương dễ chịu từ những dòng sông thơm mùi hương. Một người Hy Lạp, tên là Magallus, đã tạo ra một loại nước hoa kết hợp từ hương nhụy hoa nghệ tây, quế ceylon và quế cassia, được gọi là "Megaleion" và trở nên nổi tiếng khắp đất nước, một phầnkhông ít là do tính chất chữa lành vết thương và chống viêm. Điều này không lạ, khi mà quân lính Hy Lạp cũng mang theo một loại mỡ, chứa hương nhụy hoa nghệ tây, vào chiến trận với tính năng chống vi khuẩn và chữa lành vết thương xuất sắc.

Một người Hy Lạp nổi tiếng khác, một bác sĩ danh tiếng, tên là Marestheus, nhận ra rằng một số loại thảo mộc thơm thường có tính chất kích thích và rằng hương thơm hoa hồng, hoa quả và gia vị có tác dụng làm tươi mới tinh thần mệt mỏi.

6. Người La Mã

Nhiều bác sĩ Hy Lạp cũng được làm việc ở Rome và vì vậy đã truyền đạt kiến thức của họ cho một nền văn minh tiên tiến khác nữa. Tuy nhiên, người La Mã không chỉ sử dụng các loại thảo mộc thơm cho mục đích y học, mà còn tiếp tục tăng cường việc sử dụng chúng trong các sản phẩm vệ sinh và làm đẹp. Dầu thơm và tinh dầu thơm được sử dụng thường xuyên trong các nhà tắm công cộng, cả trong nước tắm và trong hỗn hợp mát-xa.

Đế quốc La Mã trở nên rộng lớn và do đó, có được sự tiếp cận với nhiều loại cây cỏ và thảo mộc. Kết quả là, họ lạm dụng việc sử dụng nước hoa và dầu thơm thảo mộc. Họ sử dụng ba loại nước hoa: 'ladysmata' là loại kem thơm rắn; 'stymmata', dầu thơm thảo mộc; và 'diapasmata', nước hoa bột. Chúng được sử dụng để làm thơm tóc, cơ thể, quần áo, chăn gối và cho việc mát-xa sau khi tắm. Và rõ ràng, Nero đã từng đốt nhiều nhang hơn số lượng nhang mà Ả Rập có thể sản xuất trong cả năm tại đám tang của vợ mình. Điều thú vị là từ 'nước hoa' thực sự xuất phát từ tiếng Latin 'per fumum' có nghĩa là "qua làn khói" và liên quan đến việc đốt hương.

Pedanius Dioscorides (40-90AD) là một bác sĩ quân y người Hy Lạp trong quân đội của hoàng đế La Mã vào thời Nero. Ông đã có thể đi du lịch nhiều nơi (Đức, Ý, Tây Ban Nha) và viết một cuốn sách có tên “De Materia Medica” (thảo dược Hy Lạp cổ nhất còn tồn tại). Đây là một bộ sách khổng lồ gồm năm tập liệt kê môi trường sống của khoảng 500 loài thực vật, cách chuẩn bị chúng, cùng với đặc tính chữa bệnh của chúng và hơn 1000 loại thuốc thực vật. Cuốn sách này vẫn là tài liệu tham khảo y học tiêu chuẩn của thế giới phương Tây trong ít nhất 1200 năm tiếp theo và mang lại cho Dioscorides danh hiệu “Cha đẻ của ngành Dược học”. De Materia Medica là nguồn thông tin lịch sử hàng đầu về các loại thuốc được người Hy Lạp, La Mã và các nền văn hóa cổ đại khác sử dụng, với phần lớn kiến thức về thảo dược trong cuốn sách của Dioscorides vẫn ảnh hưởng đến y học thảo dược ngày nay.

Bìa sách De Materia Medica xuất bản tại Lyon năm 1554

Bìa sách De Materia Medica xuất bản tại Lyon năm 1554. Theo wikipedia.org

Claudius Galen, là một bác sĩ, bác sĩ phẫu thuật và triết gia nổi tiếng người La Mã (gốc Hy Lạp), người đã nghiên cứu y học và bắt đầu sự nghiệp y tế của mình bằng cách điều trị vết thương cho các đấu sĩ La Mã bằng dược liệu, cho ông cơ hội nghiên cứu vết thương. Người ta nói rằng không có đấu sĩ nào chết dưới sự chăm sóc của Galen và vì thành công của mình, ông đã nhanh chóng trở thành bác sĩ riêng cho một số hoàng đế La Mã. Chính Galen tin rằng không phải mũi diễn giải mùi mà là não.

Theo thời gian, Đế chế La Mã lan rộng ra các khu vực rộng lớn trên thế giới và kiến thức của họ về tác dụng chữa bệnh của thực vật cũng tăng theo - chính người La Mã đã giới thiệu nước hoa đến Quần đảo Anh. Hạt giống và thực vật được thu thập từ khắp nơi và một số trong số chúng cuối cùng đã được đưa đến bờ biển nước Anh và theo thời gian trở thành cây bản địa - các loại cây như thì là, rau mùi tây, cây xô thơm, hương thảohúng tây.

Tuy nhiên, khi đế chế rộng lớn này sụp đổ và cùng với sự xuất hiện của Cơ đốc giáo, nhiều bác sĩ La Mã đã trốn đến Constantinople mang theo những cuốn sách y học quý giá mà cuối cùng đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ khác.

7. Người Do Thái và Kitô giáo sơ khai 

Vào khoảng năm 1240 trước Công Nguyên, người Do Thái bắt đầu cuộc di cư từ Ai Cập trên hành trình kéo dài 40 năm đến Israel, mang theo mình nhiều loại nhựa và dầu quý giá, cùng với kiến thức về cách sử dụng chúng. Trong sách Xuất hành của Cựu Ước, Đức Chúa Trời đã hướng dẫn Moses tạo ra một loại 'dầu xức thánh' được làm từ một dược, quế ngọt, xương bồ, quế cassia và dầu ô liu. Sự kết hợp như vậy sẽ có đặc tính chống vi-rút và chống vi khuẩn rất mạnh, mang lại sự bảo vệ cho tất cả những người tiếp xúc với nó. Không chỉ vậy, tác dụng chữa lành vết thương của nhựa thơm đã được biết đến nhiều, thậm chí trước thời điểm này.

Mô phỏng đền thờ Jerusalem do Vua Salomon xây dựng

Mô phỏng đền thờ Jerusalem do Vua Salomon xây dựng

Trong nền văn minh Do Thái, việc thanh lọc phụ nữ Do Thái diễn ra trong suốt một năm, và trong sáu tháng đầu tiên, việc này được thực hiện bằng cách xức thường xuyên bằng 'dầu mộc dược', cùng với các chất thơm khác được sử dụng trong sáu tháng sau. Trong cuộc di cư và những thời điểm khác, khi việc tắm rửa là không thực tế đối với phụ nữ Do Thái, một túi vải lanh nhỏ chứa nhựa thơm và các chất thơm khác được treo trên một sợi dây giữa ngực để hoạt động như một chất khử mùi.

Trong khi những ngôi đền cổ của Ấn Độ được xây dựng bằng gỗ đàn hương thì đền thờ của Vua Solomon ở Jerusalem được xây dựng bằng gỗ tuyết tùng thơm (“tuyết tùng của Lebanon”). Có lẽ họ cũng nhận ra sự cần thiết của bầu không khí dễ chịu khi tham dự các nghi lễ tôn giáo.

Theo Kinh Thánh, các nhà chiêm tinh Phoenicia đã mang quế ceylon, nhũ hương, gừng và một dược từ Phương Đông sang. Và hai trong số những món quà vô cùng quý giá này, nhũ hương và một dược, đã được dâng cho Chúa Kitô khi Ngài chào đời. Một cách tượng trưng, Ngài là một đấng Thánh (nhũ hương dành cho Đức Chúa Trời) và cái chết của Ngài (một dược được sử dụng để bảo quản người chết). Vàng, ngẫu nhiên, là biểu tượng hoàng gia cao quý của Ngài (vàng dành cho vua).

Ba nhà chiêm tinh dâng lễ vật lên Chúa Hài Đồng

Ba nhà chiêm tinh dâng vàng, nhũ hương và mộc dược lên Chúa Hài Đồng

Spikenard – Tinh Dầu Cam Tùng Hương được cho là đã được nhập khẩu từ Ấn Độ và được bà Maria sử dụng để xức dầu cho Chúa Kitô trước khi Ngài bị đóng đinh, và bọt biển được giữ lên trước mặt Ngài, trong lúc Ngài treo trên cây thánh giá, là một hỗn hợp của giấm và một dược (có lẽ được dùng để giảm đau cho những người bị đóng đinh).

8. Thời Trung Cổ (500-1500)

Chính các Hiệp sĩ Thập tự chinh đã mang tinh chất thơm và nước thơm trở lại Châu Âu. Chúng trở nên phổ biến đến mức nước hoa bắt đầu được sản xuất. Tuy nhiên, giá trị thực sự của những loại cây và thảo mộc này chỉ được đánh giá đúng giá trị khi bệnh dịch hạch lan đến châu Âu vào thế kỷ 14. Lệnh được đưa ra là đốt lửa vào ban đêm ở các góc phố, cùng với những thứ khác như nhũ hương, benzoin và thông. Trong nhà, mùi của cái chết và cuộc chiến chống lại sự lây nhiễm được chiến đấu bằng cách sử dụng nhang và nến thơm, cùng với các loại thảo mộc thơm “rải” rải rác khắp các tầng để giẫm lên, từ đó giải phóng mùi hương của chính chúng nhằm ngăn chặn sự lây nhiễm và che giấu những gì chắc hẳn phải có mùi cơ thể cực kỳ khó chịu và không tốt cho sức khỏe. Do đó, chất thơm được sử dụng rộng rãi để chống lại Cái chết đen vào thời điểm này, người ta thường mang hoặc đeo các loại cây thơm dưới dạng quả táo, bao gồm một quả cam, nhồi đinh hương hoặc đeo những bó hoa thảo dược. Những cây thơm này là chất khử trùng tốt nhất chống lại Bệnh dịch vào thời điểm này và mọi người đều biết điều đó. Điều thú vị cần lưu ý là các nhà bào chế thuốc và nước hoa được cho là miễn dịch với Bệnh dịch do họ thường xuyên xử lý nguyên liệu thực vật có mùi thơm.

Đại dịch Cái Chết Đen

Các bác sĩ vào thời điểm này thường đeo một chiếc túi mũi có chứa các loại thảo mộc thơm, chẳng hạn như quế và đinh hương, nhằm lọc không khí họ hít thở, tạo ra bầu không khí sát trùng được cho là có tác dụng bảo vệ chống lại Bệnh dịch hạch. Họ cũng vẫy tay trước mặt khi họ bước đi bằng một cây gậy dài có nắp hở, cũng chứa các loại thảo mộc thơm, với hy vọng khử trùng thêm không khí họ hít thở. Các bác sĩ tiếp tục sử dụng những phương pháp này trong suốt thời Trung Cổ và đến thế kỷ 17.

Tuy nhiên, chính các tu viện đã trở thành nơi trồng cây thơm chính vào thời điểm này, một số trong số đó đã tìm được đường đến bờ biển này từ Ý - húng tây và melissa. Những khu vườn thơm này sau đó được các trường đại học y khoa tiếp tục duy trì khi thực vật học trở thành một phần của nghiên cứu y học, cuối cùng phát triển thành vườn thực vật trong thời kỳ Phục hưng, hay vườn 'physic' như chúng được biết đến sau này. Khu vườn physic đầu tiên được thành lập ở Anh là ở Oxford vào năm 1621.

Trong thế kỷ 12, một nữ tu viện trưởng người Đức, tên là St Hildegard of Bingen (1098 – 17 tháng 9 năm 1179) đã trồng hoa oải hương vì đặc tính chữa bệnh của nó, đồng thời sử dụng tinh dầu của nó. Cô nổi tiếng với khả năng chữa bệnh liên quan đến việc ứng dụng thực tế các loại cồn thuốc, thảo mộc và đá quý.

Trong thời Trung Cổ, con đường thương mại chính với các nền văn minh Ả Rập vào thời điểm đó là qua Venice và chính tại đây đã bắt nguồn từ cơn sốt găng tay da thơm. Có thể một nữ quý tộc người Ý, Catherine D'Medici đã giới thiệu kiểu thời trang này đến phần còn lại của châu Âu nhân dịp kết hôn với vị vua tương lai của Pháp, khi bà mang theo người chế tạo nước hoa của mình đến Pháp vào năm 1533. Grasse, ở Pháp, tại Vào thời điểm đó chủ yếu sản xuất đồ da, nhưng khi kiểu thời trang này bắt đầu phát triển, các doanh nhân can đảm của Grasse bắt đầu làm thơm đồ da của họ bằng các loại cây thơm mọc quanh thị trấn - cuối cùng sử dụng các loại cây như hoa huệ, cây keo, hoa tím, hoa oải hương và hoa hồng. Khi thời trang suy thoái, ngành công nghiệp da của Grasse dần được thay thế bằng sản xuất nước hoa, điều này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.

Vào cuối thế kỷ 15, tại một thị trấn ngày nay thuộc Thụy Sĩ, Philippus Theophrastus Bombastus von Hohenheim sinh ra (1493-1541). Thường được biết đến với cái tên Paracelsus, ông đã trở thành một bác sĩ, nhà chiêm tinh, bác sĩ phẫu thuật và nhà giả kim nổi tiếng vào thế kỷ 16, ông đã cách mạng hóa y học và đặt nền móng cho cả y học hiện đại và y học thay thế ngày nay. Ông là người đầu tiên thành công trong việc tách phần tổng thể của thực vật khỏi các thành phần tinh chất hơn của chúng, tức là cô lập các tác nhân hóa học hoạt động trong thực vật, một quá trình hiện đã trở thành thói quen trong ngành dược phẩm ngày nay. Năm 1536, ông viết một cuốn sách tên là “Great Surgery Book” và nói rõ rằng vai trò chính của thuật giả kim (từ nguyên gốc của hóa học hiện đại - xem phần “Hồi giáo thời Trung Cổ”) không phải là biến kim loại cơ bản thành vàng mà là để tạo ra các loại thuốc chữa bệnh từ một số chiết xuất thực vật nhất định mà ông đặt tên là 'quinta essentia' tức là tinh chất hoặc tinh dầu. Do ông nhấn mạnh đến tầm quan trọng của quá trình chưng cất để giải phóng phần quan trọng nhất của từng loại cây, một số loại dầu như gỗ tuyết tùng, quế, nhũ hương, mộc dược, hoa hồng, hương thảo và cây xô thơm đã được các dược sĩ biết đến rộng rãi vào năm 1600.

8. Hồi giáo thời Trung Cổ

Một bác sĩ và triết gia người Ả Rập tên là Avicenna (Ibn Sina) (980-1037 sau Công nguyên) sinh ra ở Bukhara, Ba Tư. Ông bắt đầu học y khoa từ năm 16 tuổi và đến năm 20 tuổi đã được phong làm ngự y của triều đình và được phong tước hiệu “Hoàng tử của các thầy thuốc”. Ông đã viết nhiều cuốn sách mô tả tác dụng của các loại thực vật khác nhau đối với cơ thể. Tập 14 của ông “Al-Qanun fi al-Tibb”, có nghĩa là “Quy điển về Y học”, là một bộ bách khoa toàn thư y học hoành tráng và bao gồm các truyền thống Hippocrates và Galenic. Nó đã trở thành sách giáo khoa và hướng dẫn giảng dạy y khoa chính thức trên khắp Tây Âu và các nước Hồi giáo trong hơn 700 năm.

Avicenna

Ông cũng được cho là đã cải tiến phương pháp chưng cất rất đơn giản bằng cách phát minh ra cuộn dây làm lạnh, một quá trình liên quan đến việc kéo dài chiều dài của ống làm mát và tạo thành một cuộn dây, cho phép hơi nước nguội nhanh hơn và hiệu quả hơn. Thành công lớn đầu tiên của ông trong phương pháp chưng cất cải tiến này là sản xuất được tinh dầu Rosa centifolia. (Cuối cùng, chính Damascus ở Syria đã trở thành nơi sản xuất hoa hồng lớn trong thế kỷ 13 và cuối cùng được đặt tên là Hoa hồng Damask.)

Một cách sử dụng đặc biệt thú vị khác mà người Ả Rập sử dụng là làm thơm vữa dùng để xây dựng nhà thờ Hồi giáo của họ - một nghệ thuật hấp dẫn đã được người Babylon cổ đại truyền lại cho họ.

 

*Nguồn:

* Phản hồi và góp ý: Chúng tôi cung cấp thông tin dựa trên khả năng tốt nhất nhưng do nhiều hạn chế nên không thể tránh khỏi sai sót. Chúng tôi hoan nghênh ý kiến ​​và góp ý từ độc giả để cải thiện chất lượng thông tin.